Anh Trần Duy Đoan, xã Hải Lựu tận dụng sự phát triển của mạng xã hội để quảng bá, tiêu thụ sản phẩm
Nông dân 4.0 - Trung tâm của chuyển đổi số
Trước làn sóng toàn cầu hóa và tác động sâu rộng của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, ngành Nông nghiệp tỉnh đã chủ động chuyển mình mạnh mẽ, đưa công nghệ số vào mọi lĩnh vực sản xuất, từ trồng trọt, chăn nuôi đến thủy sản và lâm nghiệp. Đây không chỉ là bước đi tất yếu để thích ứng với thời kỳ mới mà còn là nền tảng quan trọng giúp ngành hướng tới mục tiêu phát triển hiện đại, hiệu quả và bền vững.
Đến nay, toàn tỉnh đã quy hoạch và xây dựng được 648 vùng sản xuất tập trung đối với các sản phẩm nông nghiệp chủ lực, có lợi thế cạnh tranh với tổng diện tích gần 80 nghìn ha. Cùng với đó, cấp 788 mã số vùng trồng và 4 mã số cơ sở đóng gói phục vụ xuất khẩu, tạo điều kiện thuận lợi cho việc truy xuất nguồn gốc nông sản, yêu cầu bắt buộc trong xu thế hội nhập hiện nay. Tỷ lệ áp dụng các biện pháp kỹ thuật tiên tiến như quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) và quản lý cây trồng tổng hợp (ICM) đạt trên 80% diện tích vùng trồng, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và giảm chi phí sản xuất.
Trong lĩnh vực chăn nuôi, các tiến bộ khoa học công nghệ được áp dụng ngày càng sâu rộng. Nhiều hộ chăn nuôi đã được hỗ trợ lai tạo giống bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo, áp dụng máng ăn uống tự động, hệ thống làm mát bằng phun sương kết hợp quạt gió nhằm giảm nhiệt mùa hè, đồng thời lót đệm chuồng để hạn chế bệnh dịch. Lĩnh vực lâm nghiệp cũng đẩy mạnh triển khai ứng dụng phần mềm giám sát rừng, cho phép cập nhật và cảnh báo sớm nguy cơ cháy rừng, mất rừng, từ đó giúp công tác bảo vệ và phát triển rừng được thực hiện chủ động, hiệu quả hơn.
Cùng với sự hỗ trợ của các ngành chức năng, đội ngũ “nông dân thời 4.0” trên địa bàn tỉnh đã thể hiện tinh thần tiên phong, ngày càng chủ động tiếp cận, ứng dụng công nghệ hiện đại như IoT (Internet vạn vật) và AI (trí tuệ nhân tạo) vào thực tiễn sản xuất. Nhiều hợp tác xã và hộ nông dân đã lắp đặt cảm biến thông minh để theo dõi và điều khiển môi trường chăn nuôi, giám sát sức khỏe vật nuôi; triển khai hệ thống truy xuất nguồn gốc nông sản; áp dụng tưới nhỏ giọt tự động hoặc dùng máy bay không người lái để phun thuốc bảo vệ thực vật, giúp giảm đáng kể công lao động và chi phí sản xuất.
Song song với đó, nhiều bà con, hợp tác xã nông nghiệp còn chú trọng xây dựng hình ảnh, thương hiệu trên môi trường số. Nhiều đơn vị đã thiết lập website, fanpage, livestream… để giới thiệu, quảng bá sản phẩm. Theo thống kê, hiện có hơn 70 hợp tác xã nông nghiệp trong tỉnh đã ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, sản xuất và kinh doanh, qua đó góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nông sản.
Tại xã Hải Lựu, mô hình trồng nho công nghệ cao kết hợp du lịch sinh thái trải nghiệm của anh Trần Duy Đoan là minh chứng sinh động cho hiệu quả ứng dụng công nghệ số. Yếu tố tạo nên sự khác biệt là trang trại lắp đặt hệ thống nhà màng theo công nghệ Isarel để che mưa, che sương cho cây; quản lý lượng nước tưới cho cây trồng, đầu tư hệ thống tưới thông minh, cung cấp lượng nước tưới phù hợp tới từng gốc cây theo từng thời điểm để điều tiết quá trình sinh trưởng và phát triển của cây, giúp cây ra hoa, đậu quả theo mùa vụ mong muốn.
Ngoài ra, trang trại còn sử dụng hệ thống kiểm tra phân bón, hàm lượng đất để tính lượng phân bón phù hợp cho từng giai đoạn phát triển của cây. Hệ thống cảm biến nhiệt độ được áp dụng hiệu quả, nếu nhiệt độ thời tiết quá cao sẽ có tác dụng làm mát, nhiệt độ quá lạnh sẽ làm ấm, phù hợp với sự phát triển của cây nho. Để nhiều người biết đến nông trại nho sạch, anh Đoan đã quảng bá hình ảnh vườn nho lên các trang mạng xã hội, đăng ký thiết lập định vị tìm kiếm trên Google map cũng như số hóa các quy trình sản xuất theo hướng VietGAP.
Nói về hiệu quả ứng dụng công nghệ 4.0 vào trồng trọt, anh Đoan cho biết: Với việc áp dụng khoa học công nghệ ngay từ khâu chọn cây giống, chăm sóc, đến khâu thu hoạch, vườn nho của gia đình luôn sinh trưởng, phát triển tốt, ít sâu bệnh, năng suất, sản lượng và đặc biệt chất lượng quả, độ ngọt được người tiêu dùng đánh giá cao. Với giá bán nho Hạ Đen 160 nghìn đồng/kg, nho Mẫu Đơn 250 - 350 nghìn/kg, lợi nhuận mang về cho gia đình tôi gần 500 triệu đồng/năm. Đồng thời, giải quyết việc làm thường xuyên cho 5 - 6 lao động với mức thu nhập 5 - 6 triệu đồng/người/tháng. Trong thời gian tới, tôi dự định đầu tư sâu hơn vào tự động hóa và trí tuệ nhân tạo, từng bước ứng dụng các phần mềm quản lý sản xuất, truy xuất nguồn gốc và giám sát chuỗi cung ứng sản phẩm. Mục tiêu là xây dựng một mô hình nông trại số toàn diện, vừa bảo đảm hiệu quả kinh tế, vừa thân thiện với môi trường, phù hợp với định hướng chuyển đổi số của ngành Nông nghiệp trong giai đoạn mới.
Hệ thống giám sát nông nghiệp thông minh giúp chị Văn Thị Yến, xã Vĩnh Tường nâng cao hiệu quả quản lý, giám sát sự phát triển của cây trồng
Không chấp nhận để sản xuất nông nghiệp phụ thuộc vào thời tiết, chị Văn Thị Yến ở xã Vĩnh Tường đã tự học hỏi, tìm hiểu và đầu tư mô hình nông nghiệp công nghệ cao. Trên diện tích 6.000 m2 nhà lưới, chị lắp đặt toàn bộ hệ thống tưới tiêu, bón phân tự động được lập trình chi tiết, kết hợp cảm biến nhiệt độ, độ ẩm thông minh, giúp điều chỉnh chế độ chăm sóc phù hợp, giúp cây sinh trưởng ổn định trong mọi điều kiện thời tiết. Chỉ với một chiếc điện thoại thông minh, toàn bộ quy trình sản xuất được kiểm soát từ xa, giúp tiết kiệm nước, phân bón, nhân công và hạn chế rủi ro do sâu bệnh hay thời tiết cực đoan. Nhờ ứng dụng công nghệ, năng suất và chất lượng nông sản được nâng lên rõ rệt.
Không chỉ chú trọng sản xuất, chị Yến còn tận dụng mạng xã hội để quảng bá, mở rộng tiêu thụ sản phẩm. Fanpage của trang trại thường xuyên đăng tải, livestream giới thiệu các sản phẩm, quy trình trồng trọt theo hướng sạch, nhờ đó các sản phẩm như dưa lưới, nho sữa của trang trại luôn được các chuỗi cửa hàng thực phẩm sạch và siêu thị tin tưởng lựa chọn. Trung bình mỗi tháng, trang trại cung cấp hàng trăm kg nông sản, mang lại lợi nhuận khoảng 20 triệu đồng, đồng thời tạo việc làm ổn định cho 4 - 5 lao động nữ tại địa phương với thu nhập từ 6 - 8 triệu đồng/người/tháng.
Hướng tới nền nông nghiệp số toàn diện
Mô hình của anh Đoan, chị Yến cùng hàng trăm nông dân “kỹ thuật số” khác đang chứng minh rằng chuyển đổi số không còn là xu hướng mà đã trở thành động lực then chốt giúp nông nghiệp phát triển thông minh, hiệu quả và bền vững, góp phần khẳng định vị thế của người nông dân trong kỷ nguyên công nghệ số. Từ đây, nhiều “cánh đồng công nghệ” được hình thành, góp phần giải quyết bài toán thiếu lao động, giảm chi phí vật tư, thúc đẩy chuyển dịch tư duy từ sản xuất sang kinh tế nông nghiệp, nâng cao giá trị thu nhập trên từng đơn vị diện tích.
Tuy nhiên, quá trình số hóa nông nghiệp vẫn đang đứng trước nhiều thách thức. Số lượng doanh nghiệp đầu tư vào chuyển đổi số còn hạn chế; trình độ tiếp cận và kỹ năng sử dụng công nghệ của phần lớn nông dân còn thấp, phần lớn vẫn dựa vào kinh nghiệm truyền thống. Sự kết nối, chia sẻ giữa các chủ thể trong hệ sinh thái nông nghiệp số gồm cơ quan quản lý Nhà nước, nhà khoa học, doanh nghiệp nông nghiệp, doanh nghiệp công nghệ, hợp tác xã và nông dân vẫn chưa chặt chẽ. Bên cạnh đó, công nghệ hỗ trợ chưa đồng bộ, diện tích canh tác manh mún, mức độ cơ giới hóa còn thấp; đội ngũ cán bộ chuyên trách công nghệ thông tin còn mỏng và chưa đáp ứng yêu cầu. Hạ tầng công nghệ, viễn thông chưa đồng đều giữa các khu vực, trong khi dữ liệu và hệ thống thông tin phục vụ chuyển đổi số vẫn còn phân tán, thiếu tính liên thông.
Hệ thống cảm biến thông minh giúp người nuôi cá tại xã Xuân Lãng tiết kiệm đáng kể thời gian, công sức, giảm rủi ro và mang lại hiệu quả kinh tế
Xác định nông dân là trung tâm và động lực của tiến trình chuyển đổi số, thời gian tới, ngành Nông nghiệp sẽ tiếp tục tháo gỡ khó khăn, triển khai đồng bộ các giải pháp thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện, hướng tới nền nông nghiệp thông minh, hiện đại và hiệu quả. Trọng tâm là đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao kỹ năng số; hướng dẫn nông dân ứng dụng công nghệ trong sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản. Song song với đó, ngành tập trung xây dựng các mô hình điểm trên cây trồng, vật nuôi chủ lực để nhân rộng, quảng bá sản phẩm và đổi mới phương thức sản xuất.
Cùng với việc số hóa thủ tục hành chính, hình thành cơ sở dữ liệu mở và tăng cường truy xuất nguồn gốc nông sản, ngành cũng chú trọng nâng cao năng lực quản lý cho đội ngũ cán bộ; khuyến khích tích tụ ruộng đất, ứng dụng GIS và các hệ thống cảm biến môi trường. Ngoài ra, tỉnh tiếp tục thực hiện hiệu quả các chính sách tín dụng ưu đãi, hỗ trợ hợp tác xã và doanh nghiệp tiếp cận vốn, thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và thu hút đầu tư vào nông nghiệp số, tạo nền tảng phát triển nông nghiệp xanh, hiện đại và bền vững.
Phùng Hải (Nguồn: phutho.gov.vn)