Khi trao đổi về tình hình phát triển kinh tế nông nghiệp của xã Hợp Hải –
một xã trọng điểm lúa, đạt tiêu chí nông thôn mới của huyện Lâm Thao,
đồng chí Chủ tịch UBND xã cho biết: Bây giờ làm ruộng nói riêng, sản
xuất nông nghiệp nói chung khác xưa nhiều. Hầu hết công đoạn nặng nhọc
đã được cơ giới hóa, nên lao động trực tiếp giảm đi nhiều nhưng sản
lượng và giá trị sản xuất vẫn tăng đáng kể. Ông kể trong xã nhiều hộ ở
nhà chỉ còn hai ông bà già nhưng hàng năm vẫn làm cả mẫu ruộng, thu về
mấy tấn thóc.
Thấy tôi ngỡ ngàng, ông giải thích
luôn: Đó là nhờ dịch vụ nông nghiệp phát triển, nhất là cơ giới hoá đảm
bảo hết các khâu làm đất, gieo sạ, ra thóc, vận chuyển… người làm ruộng
chỉ còn nghiệm thu, phơi phóng. Còn ông Chủ tịch xã Kinh Kệ cũng ở Lâm
Thao thì bảo: Xã tôi bây giờ người làm ruộng mùa cày, mùa cấy chả lo gì
làm đất, hôm nào gieo sạ hay cấy cứ ra đồng là ruộng đã được cày bừa
sẵn, thậm chí ai làm đất cũng chả biết, chỉ đến khi họ đến bảo thanh
toán mới biết. Không riêng gì những xã vùng trọng điểm lúa Lâm Thao mà
bây giờ, nhờ chương trình cơ giới hoá trong nông nghiệp, những chiếc máy
cày, máy bừa, máy bơm nước, tuốt lúa đã khá thân thuộc trên đồng ruộng.
|
Thực hiện chủ
trương đưa cơ giới vào sản xuất nông nghiệp, nhiều hộ ở xã Vĩnh Lại
(huyện Lâm Thao) đã sử dụng máy gặt đập liên hoàn để thu hoạch lúa, giảm
công sức lao động của người nông dân.
Ảnh: PHƯƠNG THANH |
Sau những năm đỉnh cao giai đoạn từ 1976
đến 1980, khi triển khai thực hiện “Khoán 100” rồi “khoán 10” chương
trình cơ giới hóa trong nông nghiệp sụt giảm hẳn. Suốt những năm
1990-2010 cơ giới phục vụ nông nghiệp chỉ dừng lại ở máy bơm nước, vài
chiếc công nông đầu ngang chuyên chở phân gio, lúa gặt ở quy mô hộ, nhỏ
lẻ. Phải đến cách nay 6-7 năm khi triển khai chương trình nông nghiệp,
nông thôn theo Nghị quyết 26, việc cơ giới hóa mới hồi sinh trở lại.
Bắt đầu từ máy bơm nước, máy làm đất, tuốt lúa nhỏ, dần dà đến đủ loại
máy cày, máy bừa, rồi máy hái chè, phun thuốc sâu... Bây giờ máy móc đã
trở thành công cụ phục vụ đắc lực khi lao động nông thôn ngày một ít đi,
yêu cầu thời vụ gay gắt hơn.
Đồng chí Trần Tú Anh, Phó giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT cho biết: Cách
đây 8-10 năm trong nông thôn số lao động tham gia sản xuất nông nghiệp
vẫn chiếm từ 70-80%; ngay một số hộ có thu nhập chính từ dịch vụ buôn
bán, ngành nghề vẫn tham gia làm ruộng. Nhưng bây giờ số lao động đích
thực làm nông nghiệp chỉ ở mức 40-50% tổng số lao động nông thôn, một số
xã thậm chí còn không đến 30%. Nguyên nhân do lao động trẻ, thoát ly ra
ngoài tìm kiếm việc làm, thu nhập cao hơn, các lao động ở lại nông thôn
cũng tìm việc làm khác có thu nhập khá nên dần bỏ ruộng. Trong khi lao
động nông thôn sụt giảm, thì áp lực thời vụ càng gay gắt hơn. Hầu hết
ruộng đất sản xuất 3-4 vụ, thời gian đất “nghỉ” rất ít. Có vụ do ảnh
hưởng thời tiết, thời gian từ khi thu hoạch lúa xuân đến cấy lúa mùa
không đến một tháng, thậm chí vụ đông từ khi gặt mùa đến trồng ngô, đỗ,
đậu… thời gian tính bằng ngày nên đòi hỏi cơ giới hóa các khâu sản xuất
là rất cao. Nếu không có hỗ trợ dịch vụ cơ giới thì khó đảm bảo mùa, vụ,
làm hết diện tích, đặc biệt giải quyết thu nhập nông thôn. Để làm ruộng
thủ công một lao động chỉ có thể quay vòng được 4-5 sào, lúc vào mùa
vụ cấy, gặt còn phải huy động hỗ trợ thêm, nhưng có cơ giới, một lao
động sản xuất một vài ha, thậm chí hàng chục ha là bình thường. Ngay như
trong khâu thu hoạch chè, một máy hái có thể thay thế vài chục lao động
thủ công. Từ yếu tố tất yếu này nên 6-7 năm nay, ngành nông nghiệp và
PTNT đã tập trung triển khai chương trình cơ giới hóa nông nghiệp.
Đây là chương trình quy mô rộng với nhiều hình thức, chủ yếu hỗ trợ để
nông dân mua sắm máy làm đất, máy gặt, máy bơm nước, máy phun thuốc sâu
các loại tùy theo quy mô, loại hình sản xuất. Thấy được lợi ích trong cơ
giới hóa nông nghiệp, nông thôn, nhiều xã không chỉ khuyến khích, hỗ
trợ mà còn đẩy mạnh dồn đổi ruộng đất tạo cơ hội đưa cơ giới hóa vào
đồng ruộng, chuyên môn hóa trong sản xuất. Nhiều hộ nông dân đã mạnh dạn
đầu tư vốn để mua sắm thêm các loại máy móc làm dịch vụ nông thôn. Theo
tổng hợp của ngành nông nghiệp, chỉ tính từ 2010 đến nay, toàn tỉnh đã
hỗ trợ gần 800 máy nông nghiệp các loại gồm máy làm đất, máy vò lúa, máy
sao, sấy chè, đốn chè, chế biến thức ăn thủy sản… Cùng với các máy móc
do các chương trình khác hỗ trợ, nông dân tự mua sắm, đến nay số máy móc
nông nghiệp đã lên tới hàng vạn chiếc các loại, phục vụ đắc lực cho sản
xuất. Hầu hết các khâu lao động nặng nhọc như cày, bừa, vận chuyển
tuốt, vò, bơm nước... đã được cơ giới hóa. Số liệu điều tra tổng hợp
chung toàn tỉnh gần đây cho thấy, ở lĩnh vực sản xuất lúa, khâu làm đất
đã cơ giới hóa 80%, khâu chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh 43%, khâu thu
hoạch 20%, khâu vận chuyển 50%; sản xuất chè thu hoạch đạt gần 60%, sao
sấy đạt 95%, vận chuyển 60%; sản xuất lâm nghiệp tỷ lệ cơ giới hóa đạt
42%. Tỷ lệ cơ giới hóa chung ở nhiều xã đồng bằng đạt tỷ lệ 70-80%, các
xã miền núi đạt 45-60%...
|
Nhờ đầu tư máy móc, chế biến lâm sản đã ngày càng phát triển.
- Xưởng chế biến gỗ ở xã Tân Phú, huyện Tân Sơn. |
Nhờ đẩy mạnh chương trình cơ giới hóa
nông nghiệp mà nhiều năm nay, dù lao động nông thôn sụt giảm nhưng giá
trị, sản lượng nông nghiệp vẫn tăng. Từ 2010 đến nay giá trị chung toàn
ngành tăng bình quân gần 5,5%, thu nhập bình quân trên một ha gieo trồng
tăng từ 65 lên 88 triệu đồng; sản lượng lương thực duy trì 46-47 vạn
tấn; sản lượng thịt hơi xuất chuồng năm 2014 cao hơn năm 2011 trên 39
ngàn tấn (tương đương 30%), có gần chục xã đạt tiêu chí xã nông thôn
mới…
Tuy đã đạt được những kết quả rất quan trọng, song chương trình cơ giới
hóa nông nghiệp đang gặp phải trở ngại rất lớn từ đồng ruộng. Ngoài khó
khăn địa bàn miền núi, nhiều diện tích đất lầy thụt, bình độ cập lệch
còn là quy mô ruộng đất manh mún, nhỏ lẻ. Đến nay số xã có bình quân
dưới 5 ô thửa/hộ, quy mô diện tích vài trăm m2 thửa rất ít; chủ yếu vẫn
trên dưới chục ô thửa/hộ, quy mô diện tích dưới vài trăm m2/ô thửa,
thậm chí nhiều ô thửa chỉ có vài chục m2. Cùng với đó trình độ, nhu cầu
sản xuất nông nghiệp trong nông thôn không đồng đều càng gây khó khăn
cho hoạt động máy móc. Một vấn đề nữa là dịch vụ bảo dưỡng, tu sửa máy
móc cơ giới nông nghiệp chưa được quan tâm đầu tư, ảnh hưởng hiệu quả
quản lý, sử dụng máy cơ giới nông nghiệp, nông thôn.
Để phát huy hết khả năng chương trình cơ giới hóa, thời gian tới đây cần
đẩy mạnh dồn đổi ruộng đất, sắp xếp lại đồng ruộng theo hướng chuyên
canh. Đây không chỉ để đáp ứng cho yêu cầu máy móc hoạt động mà còn là
nhu cầu tất yếu phát triển nông nghiệp hiện đại, góp phần CNH-HĐH nông
nghiệp, nông thôn.
Nguồn: baophutho.vn