|
Qua hai năm triển khai chương trình Tái cơ cấu ngành nông nghiệp,
bước đầu đã có nhiều kết quả (Ảnh minh họa: VA)
|
Qua hai năm triển khai
Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo Quyết định 899/QĐ-TTg ngày
10/6/2013 của Thủ tướng Chính phủ, bước đầu đã có nhiều kết quả. Cụ thể,
đã phê duyệt 5 quy hoạch trên phạm vi cả nước, 17 quy hoạch vùng phục
vụ tái cơ cấu và ứng phó với biến đổi khí hậu. Trong đó, đối với quy
hoạch cả nước, đã hoàn thành quy hoạch tổng thể phát triển sản xuất
ngành nông nghiệp cả nước năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Quy hoạch
tổng thể phát triển ngành thủy sản, quy hoạch phát triển các ngành hàng
lúa gạo, cao su, cà phê, hồ tiêu, điều, mía đường, rau quả, ngô. Với quy
hoạch vùng, hoàn thành quy hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn các
vùng Đồng bằng sông Hồng, Bắc-Nam Trung bộ, Đông Nam bộ, Đồng bằng sông
Cửu Long (ĐBSCL) trong điều kiện biến đổi khí hậu; quy hoạch bảo vệ và
phát triển rừng một số vùng.
Trên
lĩnh vực trồng trọt, cùng với việc xây dựng chiến lược phát triển,
ngành đã tổ chức rà soát cơ cấu các loài cây trồng chủ lực và xây dựng
phương án chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù hợp với lợi thế địa phương và
nhu cầu thị trường. Xác định chuyển đổi cơ cấu cây trồng, cơ cấu giống
là yếu tố quan trọng trong tái cơ cấu trồng trọt. Đến nay, đã chuyển đổi
hơn 260 nghìn ha đất trồng lúa không có lợi thế, hiệu quả sản xuất
thấp, bấp bênh sang trồng các cây màu, cây làm thức ăn chăn nuôi, nuôi
trồng thủy sản có hiệu quả cao hơn. Ổn định diện tích trồng cây cao su;
đẩy mạnh tái canh diện tích cà phê già cỗi ở vùng Tây Nguyên, thâm canh
điều ở Đông Nam bộ.
Trên
lĩnh vực chăn nuôi, công tác đổi mới và tổ chức lại sản xuất đang được
ngành tiếp tục quan tâm, tuyên truyền; công tác phòng chống dịch bệnh
sớm được kiểm soát. Thực tiễn năm 2014, sản lượng các sản phẩm chính đều
tăng, giá cả ở mức khá cao. Đồng thời, xuất hiện ngày càng nhiều cơ sở,
trang trại chăn nuôi kiểu công nghiệp, áp dụng công nghệ cao, kỹ thuật
tiên tiến; hiện có 176 mô hình chăn nuôi áp dụng VietGAP được cấp chứng
nhận.
Trên
lĩnh vực lâm nghiệp, năm 2014, ngành đạt sự tăng trưởng khá nhanh và
toàn diện; độ che phủ rừng đạt 41,5%. Giá trị sản xuất tăng 7,1%, đã có
bước chuyển biến mới theo hướng phát triển rừng trồng cây gỗ lớn. Trên
lĩnh vực thủy sản, đã rà soát và xây dựng 9 quy hoạch thủy sản, triển
khai thực hiện Đề án nâng cao hiệu quả khai thác cá ngừ đại dương; đang
rà soát quy hoạch hệ thống cảng cá, khu neo đậu tránh trú bão.
Trên
lĩnh vực thủy lợi, ngành nông nghiệp đã tập trung đầu tư nhiều công
trình thủy lợi, phục vụ nuôi trồng thủy sản ở vùng ĐBSCL, triển khai
nghiên cứu và xây dựng các mô hình áp dụng tiến bộ kỹ thuật trong quản
lý thủy nông, các mô hình canh tác tiên tiến: lúa – tôm, lúa – cây ăn
trái tại các tỉnh ĐBSCL, mô hình canh tác nông nghiệp thông minh thích
ứng với biến đổi khí hậu. Các chương trình an toàn hồ chứa, chương trình
đê sông, đê biển, kiểm tra chất lượng và hiệu quả các công trình đầu tư
trong Chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn… được tiếp
tục triển khai thực hiện.
Tuy
nhiên, cũng theo Bộ NN&PTNT, bên cạnh những kết quả đạt được, quá
trình thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp vẫn còn nhiều hạn chế, bất
cập. Trong đó, công tác triển khai Đề án chưa đồng bộ; nhiều địa phương,
đơn vị triển khai chậm, còn lúng túng. Vẫn còn 27 tỉnh, thành phố chưa
phê duyệt Đề án, kế hoạch hành động tái cơ cấu nông nghiệp trên địa bàn.
Kết quả trên thực tiễn thể hiện chưa nhiều, tác động đến tăng trưởng
ngành và thu nhập của nông dân còn hạn chế.
Bên
cạnh đó, việc đổi mới hình thức tổ chức sản xuất, phát triển các mô
hình chủ yếu tập trung ở lĩnh vực sản xuất lúa gạo, các lĩnh vực sản
xuất khác chưa nhiều. Đồng thời, tái cơ cấu đầu tư công mới được thực
hiện đối với nguồn vốn do Bộ NN&PTNT quản lý; nguồn vốn chưa đáp ứng
yêu cầu tái cơ cấu nên một số lĩnh vực chưa được thực hiện. Thu hút đầu
tư tư nhân, đầu tư nước ngoài (FDI) và các nguồn lực xã hội vào thực
hiện tái cơ cấu còn hạn chế.
Nhằm
thúc đẩy quá trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp, theo Thứ trưởng Bộ
NN&PTNT Hà Công Tuấn, thời gian tới, ngành nông nghiệp cần tập trung
thực hiện các giải pháp quyết liệt và đồng bộ. Cụ thể, đẩy mạnh công
tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức, tạo sự quyết tâm cao trong tái cơ
cấu nông nghiệp. Tiếp tục điều chỉnh, hoàn thiện đề án tái cơ cấu các
lĩnh vực; rà soát, điều chỉnh quy hoạch sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp
và nghề muối.
Hiện,
ngành đã xây dựng và phê duyệt ban hành Đề án tái cơ cấu lâm nghiệp,
thủy sản, thủy lợi, trồng trọt, chăn nuôi, chế biến. Trên cơ sở đó, các
địa phương tiến hành rà soát xác định lựa chọn những cây trồng vật nuôi
có lợi thế, hình thành các vùng sản xuất hàng hóa theo quy mô lớn. Đối
với các vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc theo điều kiện cụ thể để
lựa chọn phát triển cây, con hàng hóa thay cho tự cung tự cấp.
Bên
cạnh đó, cần xem công tác chuyển giao và ứng dụng khoa học công nghệ
(KHCN) là then chốt để tạo đột phá trong tái cơ cấu; tập trung nguồn lực
đầu tư nghiên cứu, giải quyết các vấn đề quan trọng bức thiết của
ngành, kiên quyết chống giàn trải, kém hiệu quả. Thúc đẩy ứng dụng sâu
rộng KHCN, nhất là công nghệ sinh học, công nghệ thông tin vào sản xuất,
quản lý nông nghiệp; nghiên cứu, chọn tạo và tổ chức sản xuất ra các
giống cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng và giá trị thương
phẩm cao, ưu tiên các nguồn lực cho các sản phẩm chủ lực, có khả năng
cạnh tranh.
Tiếp
tục tăng cường đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, đào tạo nhân lực phục vụ
nghiên cứu và chuyển giao khoa học, công nghệ, đổi mới cơ chế quản lý,
nhất là cơ chế tài chính phục vụ nghiên cứu và chuyển giao khoa học công
nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, phát huy cao hơn sự tham
gia của các doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả công tác khuyến nông, tập
trung tạo ra sự chuyển biến rõ nét trên diện rộng đối với các loại sản
phẩm chính.
Mặt
khác, cần tổng kết kinh nghiệm, đề xuất cơ chế, chính sách hỗ trợ phát
triển, nhân rộng các mô hình sản xuất, quản lý có hiệu quả trong thực
tiễn như: mô hình hợp tác, liên kết từ sản xuất đến tiêu thụ theo chuỗi
giá trị ngành hàng, liên kết sản xuất theo cánh đồng lớn giữa doanh
nghiệp với hợp tác xã, tổ, đội sản xuất hoặc trực tiếp với nông dân. Đẩy
mạnh quá trình liên kết giữa nhà nước, nhà khoa học, doanh nghiệp với
nông dân. Trước hết, tập trung ở những vùng đã phát triển nông nghiệp
hàng hóa quy mô lớn; khuyến khích hợp tác, liên kết từ sản xuất, bảo
quản, chế biến đến tiêu thụ sản phẩm, giảm chi phí, nâng cao hiệu quả và
bảo đảm hài hòa lợi ích của các bên tham gia.
Thêm
vào đó, tiếp tục sắp xếp, đổi mới các doanh nghiệp nhà nước, quyết liệt
chỉ đạo sắp xếp, đổi mới tổ chức và hoạt động của các công ty nông lâm
nghiệp, chuyển đổi hợp tác xã nông nghiệp hoạt động theo Luật Hợp tác xã
năm 2012; tiếp tục khuyến khích và hỗ trợ phát triển kinh tế hộ sản
xuất hàng hóa, trang trại, doanh nghiệp tư nhân. Tháo
gỡ khó khăn, vướng mắc, khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào
khu vực nông nghiệp, địa bàn nông thôn, chú trọng công nghiệp chế biến
nông sản, sử dụng lao động hợp lý, chuyển dịch cơ cấu lao động và kinh
tế nông thôn. Đồng thời, đẩy mạnh đào tạo nghề, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực thông qua việc đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả
đào tạo nghề cho nông dân; ưu tiên đào tạo đội ngũ kỹ thuật viên của
ngành như cán bộ quản lý thủy nông, thú y, bảo vệ thực vật, khuyến nông,
kiểm lâm, kiểm ngư,…
Ngoài
ra, cần tích cực tham gia đàm phán các hiệp định tự do hóa thương mại
theo hướng thúc đẩy mở cửa thị trường cho các loại nông, lâm, thủy sản
của Việt Nam, kể cả đã qua chế biến; có chính sách thích ứng hợp lý với
những rào cản kỹ thuật thương mại, hỗ trợ lĩnh vực còn khó khăn; đổi mới
và đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại.
Theo ĐCSVN